Những dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển CNTT ngành Tài nguyên và môi trường
Những ngày
đầu thành lập, trang thiết bị của ngành Tài nguyên và Môi trường còn rất lạc
hậu, nguồn nhân lực về công nghệ thông tin hạn chế, cơ sở dữ liệu hầu như không
có, tài liệu tư liệu thiếu, không đồng bộ, nhưng với quyết tâm của lãnh đạo
ngành và tâm huyết của những cán bộ trực tiếp làm công tác công nghệ thông tin
ngành Tài nguyên và Môi trường, 15 năm qua là một chặng đường vất vả, tìm tòi, đột
phá…, đến nay nhìn lại, ngành Tài nguyên và Môi trường Lào Cai là đơn vị được
đánh giá khá cao trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, đưa công nghệ thông
tin vào phục vụ công tác quản lý Nhà nước về Tài nguyên, môi trường, đặc biệt
là lĩnh vực đất đai, hướng tới xây dựng chính phủ điện tử, góp phần đẩy mạnh
công tác cải cách hành chính của ngành.
Mốc 2006
thực sự là dấu ấn đậm nét trong sự phát triển công nghệ thông tin của ngành. Thực hiện dự án “Tăng cường năng lực cho các Trung tâm
Thông tin Tài nguyên và Môi trường cấp tỉnh”, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã trang
bị Hệ thống máy chủ, máy trạm, thiết bị ngoại vi và phần mềm gốc, tổ chức đào
tạo, chuyển giao công nghệ cho cán bộ tại địa phương.
Hiện nay
ngành Tài nguyên và Môi trường Lào Cai đang ứng dụng một số phần mềm chuyên
ngành để phục vụ công tác chuyên môn như: Phần mềm MicroStation – Famis, Arcgis, MapInfo phục vụ công tác xây dựng,
quản lý hệ thống bản đồ trên địa bàn toàn tỉnh; Phần mềm GEODATA phục vụ quản lý và cấp phát tư liệu trắc địa; Hệ thống phần mềm dùng chung ngành Tài
nguyên và Môi trường phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu địa chất khoáng sản,
nước – khí tượng thủy văn; Phần mềm Elis, hệ thống thông tin đất đai Web Elis do Cục Công nghệ thông tin – Bộ
Tài nguyên và Môi trường phát triển phục vụ xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đất
đai; Phần mềm CIDOC quản lý kho tư liệu ngành Tài nguyên và Môi trường; Phần mềm
phục vụ quản lý bảo vệ môi trường: (gồm có: phần mềm quản lý các cơ sở gây ô
nhiễm; phần mềm quản lý thông tin ĐTM và sau thẩm định ĐTM; quản lý số liệu
quan trắc môi trường; hệ thống quản lý thu phí BVMT đối với nước thải công
nghiệp).
Hầu
hết các lĩnh vực chuyên môn của ngành như: Công tác đo đạc lập bản đồ địa
chính, thống kê, kiểm kê đất đai, qui hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… đều được thực hiện bằng công nghệ
số. Những tài liệu đo đạc trước đây đo bằng phương pháp thủ công theo hệ tọa độ
HN72 cũng đã được số hóa chuyển khối theo chuẩn hệ tọa độ Nhà nước VN 2000 để
thuận tiện cho công tác quản lý và khai thác. Công tác tra cứu hồ sơ địa chính
cũng được thực hiện trên phần mềm CIDOC một cách khoa học, thuận tiện.
Một
điểm mốc quan trọng đánh dấu sự phát triển của công nghệ thông tin ngành tài
nguyên và môi trường nữa, đó là, năm 2007, Sở đã xây dựng bộ “Atlat bản đồ điện tử tỉnh Lào Cai” bằng
phần mềm MapInfo, hiện đang chạy trên Website của tỉnh bao gồm bản đồ cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã với các loại bản đồ chuyên đề về hành chính, địa hình, thổ nhưỡng, hạ
tầng cơ sở, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, thương mại, y tế, giáo dục, hiện
trạng kinh tế - xã hội và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một bức
tranh phản ánh toàn diện về điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội, … của tỉnh. Đáp ứng nhu cầu chia sẻ thông tin trong tỉnh, tỉnh
bạn cũng như bạn bè quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi và mời gọi các nhà đầu tư
trong và ngoài nước đến đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh, là một ngân hàng dữ liệu lưu trữ dưới
dạng số có thể sử dụng trực tiếp trên máy tính để truy cập, tổng hợp thông tin
nhanh chóng, dễ dàng và cũng rất thuận lợi để cập nhật thông tin thay đổi hàng
năm. Bản đồ ở dạng số được thống nhất, chuẩn hóa, có sự phân lớp chặt chẽ, chính
xác, có tính ứng dụng cao. Hàng năm Sở đều tổ chức
chỉnh lý bổ sung thông tin cho hệ thống bản đồ này. Năm 2014 bộ bản đồ điện tử
được được nâng cấp phù hợp với công nghệ mới, đảm bảo việc tra cứu thông tin
được nhanh chóng thuận lợi.
Tiếp
theo, năm 2008, thí điểm ứng dụng phần mềm Vilis1.0 để xây dựng hệ thống cơ sở
dữ liệu quản lý đất đai cho phường Cốc Lếu (TP Lào Cai), các xã Phong Niên, TT
Phố Lu, Sơn Hải, Xuân Quang thuộc huyện Bảo Thắng, xã Điện Quan, Vĩnh Yên huyện
Bảo Yên.
Trong
những năm 2010 và 2011 xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất các huyện Sa Pa,
Mường Khương, Bát Xát, bản đồ hiện trạng sử dụng đất cấp tỉnh và hệ thống bản
đồ giá đất trên địa bàn tỉnh Lào Cai bằng phần mềm MicroStation.
Cũng
trong năm 2011, Sở đã hoàn thành xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đất tổ chức
trên địa bàn 04 phường (Duyên Hải, Lào Cai, Kim Tân, Phố Mới) bằng phần mềm
Vilis2.0, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước – khí tượng thủy văn của tỉnh, xây dựng
được phần mềm theo dõi xử lý hồ sơ tiếp nhận và trả kết quả tại bộ phận “1
cửa”, ứng dụng hệ thống phần mềm dùng chung của ngành xây dựng Hệ thống cơ sở
dữ liệu địa chất khoáng sản, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước – khí tượng thủy văn
của tỉnh.
Trong giai
đoạn từ năm 2012 đến nay nhằm nâng cao trình độ áp dụng công nghệ thông tin
(GIS) của cán bộ chuyên môn trong công tác quản lý tài nguyên và môi trường,
đặc biệt là lĩnh vực đất đai, tin học hóa các nghiệp vụ quản lý Nhà nước về
lĩnh vực đất đai, cải cách các dịch vụ hành chính công theo hướng xây dựng chính
phủ điện tử phục vụ nhu cầu và lợi ích của người dân, doanh nghiệp, đáp ứng yêu
cầu quản lý Nhà nước sở tiếp tục đẩy mạnh công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính
trên địa bàn toàn tỉnh gắn liền với đó là công tác xây dựng hệ thống cơ sở dữ
liệu đất đai nhằm đưa ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ việc quản lý tài
nguyên môi trường hiệu quả hơn. Đến nay công tác xây dựng CSDL đất đai đang
được triển khai trên địa bàn 6 huyện, thành phố.
Nhằm nâng
cao khả năng tiếp cận, minh bạch thông tin đất đai năm 2017 sau khi hoàn thiện
xây dựng CSDL địa chính cho huyện điểm Văn Bàn được sự đồng ý của UBND tỉnh sở
đã bắt tay ngay vào xây dựng Hệ thống thông tin đất đai (Web elis) phục vụ tra
cứu thông tin đất đai qua mạng Internet. Sau quá trình thử nghiệm đánh giá với
hiệu quả mang lại của hệ thống, sở đã tiếp tục được UBND tỉnh giao nhiệm vụ xây
dựng hệ thống thông tin đất đai cho thành phố Lào Cai, hiện dự án đã triển khai
được trên 60% khối lượng công việc, cơ sở dữ liệu đất đai một số xã, phường của
thành phố đã được đưa lên phần mềm phục vụ công tác chuyên môn của ngành.
Bên cạnh đó
ngành cũng xác định việc lưu trữ, quản lý hệ thống hồ sơ thuộc lĩnh vực quản lý
cũng hết sức quan trọng, đây là dạng tài liệu được lưu trữ vĩnh viễn do vậy năm
2017 sở đã triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin kho tư liệu
Tài nguyên và Môi trường. Đây là hệ thống kho dạng số, được phân loại, phân
quyền cập nhật, khai thác phù hợp với pháp lệnh lưu trữ và các quy định về quản
lý lưu trữ. Kho dữ liệu số sẽ phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của ngành, đáp
ứng yêu cầu chia sẻ, khai thác thông tin về lĩnh vực tài nguyên và môi trường
qua mạng (cung cấp dịch vụ công mức độ 4) và phục vụ phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh.
Về cơ bản, Sở Tài nguyên và Môi trường luôn tích cực triển
khai ứng dụng kịp thời các phần mềm chuyên ngành, công nghệ thông tin của tỉnh.
Đội ngũ cán bộ nhanh chóng nắm bắt, sử dụng thành thạo, hiệu quả công việc được
nâng cao. Hệ thống cơ sở dữ liệu được xây dựng phục vụ tốt cho công tác quản
lý, cập nhật thông tin. Hàng năm tổ chức đào tạo, tập huấn, chuyển giao hướng
dẫn sử dụng phần mềm chuyên ngành, nâng cao khả năng ứng dụng CNTT phục vụ công
tác chuyên môn cho cán bộ cơ sở.
Chặng
đường 15 năm qua thực sự đã làm đổi thay phong cách làm việc mới, có hiệu quả
thiết thực. Việc
ứng dụng công nghệ thông tin của Sở đã phục vụ tích cực nhiệm vụ chính trị
trong ngành, và phục vụ nhiệm vụ của các ngành khác như Giao thông, Xây dựng,Y tế, giáo dục…, Trong
thời gian tới, Sở sẽ tiếp tục tập trung vào việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ
liệu ngành Tài nguyên và Môi trường, nhằm đồng bộ, thống nhất các dữ liệu về
đất đai, khoáng sản, nước, môi trường. Chặng đường tới, công nghệ thông tin của
ngành sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tích cực góp phần nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước về Tài nguyên và Môi trường, đóng góp vào
sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.